Ghi chú Ebla

  1. Tất cả mốc thời gian trong bài đều tính theo Trung niên đại trừ khi có chú thích khác
  2. Chính trị suy yếu dần trong thời trị vì ngắn ngủi của Adub-Damu.[18]
  3. Có lẽ nằm dọc theo sông Euphrates phía đông Ebla.[30]
  4. Pettinato đầu tiên ủng hộ giả thuyết Naram-Sin trước khi đưa ra thuyết niên đại ưu thế.[52]
  5. Michael Astour lập luận rằng việc sử dụng niên đại được Pettinato chấp thuận, sẽ xác định được thời điểm 2500 TCN cho triều đại Ur-Nanshe vua Lagash trị vì khoảng 150 năm trước khi Lagash bị Lugalzagesi hủy diệt. Vì Ur-Nanshe trị vì khoảng 2500 TCN và cách ít nhất 150 năm với Hidar vua Mari khi Ebla bị hủy diệt, như vậy mốc sự kiện phải qua 2500 TCN hay thậm chí qua cả 2400 TCN.[52]
  6. Astour lập luận theo cách tính trung niên đại cho thời điểm 2400 TCN, thời Eannatum kết thúc vào năm 2425 TCN và Ebla không bị hủy diệt cho đến năm 2400 TCN; cũng theo đó, thời Lugalzagesi trị vì sẽ bắt đầu khoảng 2350 TCN.[54]
  7. Lúc đầu Matthiae ủng hộ thuyết Naram-Sin rồi mới chuyển qua thuyết Sargon.[56]
  8. Astour tin rằng ông cháu Sargon đã nói về một thành có tên giống như vậy ở Iraq "Ib-la".[59][60] Astour nói các tài liệu lưu trữ Ebla vào thời điểm hủy diệt cho thấy bối cảnh chính trị trước khi thành lập đế quốc Akkad chứ không riêng thời Naram-Sin.[56] Sargon có lẽ không liên đới vì vào thời điểm hủy diệt, các bảng Ebla miêu tả Kish đang được độc lập. Lugalzagesi cướp phá Kish và bị Sargon tiêu diệt trước khi phá hủy Ibla hoặc Ebla.[61]
  9. Thời Amar-Sin trị vi từ năm 2045 đến 2037 TCN (Trung niên đại).[75]
  10. "Megum" được cho là danh hiệu vua Ebla hơn là một tên riêng.[76] Vua Ibbit-Lim thời hậu vương quốc Ebla đệ tam cũng dùng danh hiệu này.[77] Triện khắc chữ Ib-Damu Mekim Ebla bằng tiếng Ebla được một thương nhân Assyri tên là Assur-Nada đến từ Kültepe sử dụng vào thế kỷ 19 TCN.[78] Ib Damu là tên một vua Ebla trong giai đoạn đầu thời vương quốc đệ nhất.[78]
  11. Trong một tấm bảng nhắc đến tên của Ili-Dagan "người Ebla" và đây được cho là một vị vua.[79] Tuy nhiên, các văn bản khác lại nói đến ông như sứ thần của vua Ebla.[80]
  12. Địa điểm chưa xác định, ở phía bắc Ebla lân cận với Alalakh.[85]
  13. Điều này làm Astour, David I. Owen và Ron Veenker đồng nhất Ibbit-Lim với Megum triều Ur III thời tiền Amorite.[95] Tuy nhiên, nhận định này đã bị bác bỏ.[77]
  14. Gọi là nam cung (trong khu "FF"), nằm dưới chân mạn nam của đô thị thành cao.[120]
  15. Khu HH.[120]
  16. Nghi thức có vua và hoàng hậu đến Ninas dâng tế cho tổ tiên hoàng tộc.[148]
  17. Về mặt ngữ pháp, tiếng Ebla gần với tiếng Akkad, nhưng về mặt từ vựng và trong một số hình thức ngữ pháp, nó gần với nhóm ngôn ngữ Tây Semit hơn.[93]
  18. Kunga là con lai giữa lừa nhà đực và lừa hoang cái, trong đó giống Nagar nổi tiếng cho phối giống.[162]
  19. Nhà khảo cổ Alessandro de Maigret suy luận Ebla vẫn giữ được vị thế giao thương.[67]
  20. Giai đoạn đầu nghiên cứu Ebla, sự xuất hiện của Ishara và thần khác Ashtapi tại điện thờ là bằng chứng cho thấy sự hiện diện của người Hurri trong vương quốc Ebla đệ nhất.[187] Tuy nhiên, giờ đây các thần đó được coi là Tiền Hurri, thậm chí là Tiền Semit, được đưa vào điện thờ Hurri về sau.[171][188][189]
  21. Có thể là thần Semit cổ và không liên quan đến thần Damu của người Sumer.[192]